Tuyển dụng

Hỗ trợ ngay

Băn khoăn tiêu chí công nhận đại học nghiên cứu

Thứ ba - 07/01/2020 05:51
GS Nguyễn Đình Đức (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng việc yêu cầu đại học nghiên cứu phải có tỷ lệ tuyển sinh sau đại học đạt 20% là không khả thi.

Tại hội nghị triển khai Nghị định 99 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học ngày 6/1, GS Đức chia sẻ vui mừng khi Nghị định 99 quy định việc công nhận cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, bởi đại học nghiên cứu là tập đoàn quân, giúp đại học Việt Nam có thể tham gia xếp hạng.

"Nếu giáo dục Việt Nam chuyển biến bao nhiêu chăng nữa nhưng không có đại học nào được xếp hạng thì chúng ta chưa thể nói là thành công. Việc đề cập đến đại học nghiên cứu là sự chuyển biến quan trọng so với những văn bản lần trước", ông Đức nói. Tuy nhiên, theo ông Đức, tiêu chí để công nhận đại học nghiên cứu có phần chưa hợp lý.

Điều 10 Nghị định 99 nêu tiêu chí đại học nghiên cứu là trong ba năm gần nhất cơ sở giáo dục đại học phải công bố trung bình mỗi năm từ 100 bài báo trở lên và đạt tỷ lệ trung bình một giảng viên cơ hữu công bố mỗi năm từ 0,3 bài trở lên trên các tạp chí khoa học có uy tín.

Theo GS Đức, 100 bài báo một năm nên quy định là bài báo ISI và tiêu chí này là hoàn toàn khả thi. Riêng với việc yêu cầu mỗi giảng viên phải có 0,3 bài báo trên tạp chí uy tín, tức là cứ ba năm, một giảng viên phải có một bài trên tạp chí Q1, ông Đức cho rằng quá khó với đại học Việt Nam.

Một tiêu chí khác là đại học nghiên cứu phải có quy mô tuyển sinh trình độ thạc sĩ, tiến sĩ trung bình không thấp hơn 20% tổng tuyển sinh. Ông Đức cho biết trước đây Đại học Quốc gia Hà Nội cũng xây dựng tiêu chí để thành đại học nghiên cứu và tỷ lệ này là 25%. Tuy nhiên, những năm gần đây, các trường của Australia, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản rất khát nguồn sinh viên tài năng chất lượng cao của Việt Nam nên sẵn sàng cấp học bổng và yêu cầu trình độ tiếng Anh ở mức vừa phải để thu hút.

Chính vì vậy, tỷ lệ tuyển sinh đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ ở Việt Nam giảm xuống. Ví dụ, tỷ lệ này của Đại học Khoa học tự nhiên chỉ là 14,5%, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn là 17%. "Áp dụng các tiêu chí theo nghị định, không trường nào thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội có thể đáp ứng được", ông Đức khẳng định.

Đại diện Đại học Quốc gia Hà Nội cũng băn khoăn khi những quyền lợi của đại học nghiên cứu chưa thực sự rõ ràng. Nghị định chỉ nêu "cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu được ưu tiên thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ" mà không nói rõ ưu tiên thế nào trong bối cảnh kinh phí đầu tư giảm hàng năm. Các đại học cần biết rõ quyền lợi để tích cực tham gia, tuyên bố sứ mệnh trở thành đại học nghiên cứu, khi đó giáo dục Việt Nam mới có sức nặng.

GS Đức cho rằng cần có nhiều chính sách hỗ trợ để nghị định này triển khai được, trong đó phải có chính sách ưu tiên cụ thể. Ví dụ, mức đầu tư cho một sinh viên của đại học nghiên cứu phải gấp 3 lần so với đại học bình thường; có ưu tiên trong quy chế tuyển sinh đại học, sau đại học nhằm thu hút những em nghiên cứu cơ bản tốt nhưng chưa có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế vẫn có thể ở lại và học lên bậc cao hơn. Có như vậy, các trường mới có động lực tham gia để xếp hạng. 

Trước ý kiến của GS Đức, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh xu hướng quốc tế không phải là đầu tư cho đại học nghiên cứu để xếp hạng mà chất lượng của đại học nghiên cứu rất quan trọng đối với chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tới đây, Chính phủ giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì tham mưu ban hành một nghị định về việc nghiên cứu trong các trường đại học. "Nghị định này chắc chắn khuyến khích, tạo động lực cho các trường đầu tư tốt cho nghiên cứu và có sản phẩm tốt", ông Nhạ nói.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nói chuẩn tối thiểu để đại học được công nhận là đại học nghiên cứu đã được quy định trong nghị định nên không nên bàn đến chuyện hạ hay nâng chuẩn mà chỉ cố gắng phấn đấu để đạt được.

"Tôi có niềm tin là sau nghị định này, rất nhiều trường sẽ tập trung, tìm ra trọng tâm, trọng điểm để nâng cao chất lượng, từ đó có căn cứ để đầu tư. Ngay cả đầu tư nhà nước cũng vậy, phải xem trường có sản phẩm gì chứ không phải xem tiềm năng. Nếu chỉ có tiềm năng mà tổ chức kém, không ra được sản phẩm thì không thể cứ ngồi chờ đầu tư được", ông Nhạ nói.

Nguồn tin: https://vnexpress.net

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây